Đàn Hương Hình
Phan_16
Lúc trời sắp tối, con rể cười khơ khớ, quẳng cho ông cái bánh nướng, cười khơ khớ đi luôn. Đợi đến khi lên đèn, con gái mới về nhà. Dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn nến, con gái vui cười hỉ hả, chẳng có vẻ vừa đi giết người trở về, cũng không có vẻ giết hụt trở về, mà in như vừa dự đám cưới. Ông chưa kịp hỏi, con gái đã xịu mặt, nói:
- Cha nói bậy! Ông lớn bạch diện thư sinh, tay mềm như bông, làm sao có thể che mặt làm đạo tặc? Theo tui thì cha bị mấy con đã đổ cho nước đái ngựa, lú lẫn rồi, mắt không phân biệt thực hư, đầu không phân nổi phải trái, mới nói bậy bạ như thế. cha không nghĩ rằng, muốn vặt râu cha thì cần gì một ông tri huyện phải đích thân động thù? Lại nữa, nếu định vặt râu cha, thì khi đọ râu, sao không để cha tự vặt? Việc gì phải xóa tội cho cha? Lại nữa, câu nói bậy của cha, đủ để người ta công khai lấy mạng, cho dù không định tội, cứ giam cho đến chết trong nhà giam, việc gì phải đọ râu cho mệt? Cha ơi, cha cũng đã quẳng đi cái tuổi bốn nhăm năm mươi của cha rồi, vẫn không bao giờ nghiêm chỉnh, tối ngày ngủ lang đi bụi, bắt gà trộm chó, tui cho rằng, chính là người nhà trời vặt râu cha! Đó là trời cảnh cáo cha. Nếu cha không sửa, lần sau sẽ vặt đầu cha.
Con gái nói như liên thanh, khiến Tôn Bính toát mồ hôi. Ông nghi ngại nhìn nét mặt nghiêm chỉnh của con, nghĩ thầm: Lạ thật! Mười câu có đến tám câu không phải là khẩu khí của nó. Vỏn vẹn trong một ngày, nó đã trở thành người khác. Ông cười nhạt, hỏi:
- Mi Nương, thằng cha họ Tiền đã phù phép gì trên người con?
- Cha nói gì thế, cha còn là cha nữa không? – Mi Nương giận đỏ mặt – Ông lớn Tiền là bậc chính nhân quân tử, gặp tui ông không thèm nhìn – Nàng lấy trong bọc một thỏi bạc lớn, quẳng lên giường – Ông lớn bảo rằng, “xướng ca vô loài”, người đứng đắn không ai làm nghề này. Ông lớn thưởng cho cha đĩnh bạc năm mươi lượng, cha giải tán cái gánh hát đi, mở một cửa hiệu nhỏ.
Ông tức lộn ruột, định ném trả đĩnh bạc để tỏ rõ khí phách của người dân Đông Bắc Cao Mật, nhưng khi tay chạm vào thỏi bạc mát lạnh, ông lại không nỡ quẳng nó đi.
- Con gái, đĩnh bạc này không phải trong chì ngoài thiếc đấy chứ?
- Cha nói gì bậy bạ thế? – Mi Nương giận tím mặt – Chuyện giữa cha và mẹ tui, đừng tưởng tui không biết. Cha sống phóng đãng đã quen, khiến mẹ tui uất mà chết, tui suýt nữa cũng bị con lừa cắn chết! Tui suốt đời hận cha! Nhưng vì không thể đổi cha này lấy cha khác, dù oán hận đến mấy thì cha vẫn là cha. Trên đời này nếu có một người thành tâm mong cha tốt lên, người đó chính là tui. Cha nên nghe lời khuyên của ông lớn Tiền, kiếm nghề đứng đắn mà làm, xem ai hợp ý mình thì cưới, sống yên lành lấy dăm năm.
Tôn Bính cầm đĩnh bạc trở về vùng Đông Bắc Cao Mật, dọc đường, lúc giận cành hông, lúc ngượng chín mặt. Gặp người đi đường, ông lấy tay áo che miệng, sợ người ta trông thấy cái cằm máu loang lổ. Khi về gần đến nhà, ông dừng lại bên sông Tang Mã, làn nước phẳng như gương, ông nhìn thấy khuôn mặt xấu xí đầy nếp nhăn, tóc mai đã điểm sương, gần như một ông lão. Ông thở dài, nén đau, vốc nước rửa mặt rồi đi về nhà.
Tôn Bính giải tán gánh hát. Trong gánh có đào Hồng, mồ côi, với ông vốn đã già nhân ngãi non vợ chồng, nhân dịp này, nhờ người mai mối, chính thức cưới. Tuy tuổi tác có chênh lệch khá xa, nhưng vẫn đẹp đôi. Vợ chồng dùng số bạc ông lớn cho, mua một cơ ngơi trên phố, sửa sang đôi chút, mở một quán trà. Mùa xuân năm ngoái, Đào Hồng đẻ sinh đôi, một trai một gái, đại hỉ. Tiền đại nhân sai người đem lễ vật đến mừng: Một đôi kiềng cổ, mỗi chiếc hai lượng. Chuyện này kinh động vùng Đông Bắc Cao Mật. Người đến mừng rất đông, bốn mươi mâm mới đủ. Người ta đồn mảnh với nhau, rằng quan huyện là chàng rể một nửa của Tôn Bính, Tôn Mi Nương là quan bà một nửa. Lúc đầu nghe nói vậy, ông cảm thấy nhục nhã, dần dà cũng bỏ ngoài tai. Râu không còn, trước như con ngựa bất kham trụi bờm trụi lông đuôi, uy phong đã mất mà trái tính cũng đỡ, khuôn mặt ngang tàng xưa kia, nay hiền hòa, bóng nhẫy. Tôn Bính bây giờ đang sống hạnh phúc và yên ổn. Mặt đỏ au, tính nết hiền hòa, đúng là một hương thân.
Khoảng nửa buổi, khách đông. Tôn Bính cởi áo dài bông, chỉ mặc một áo chẽn, khăn mặt vắt vai, tay xách bình trà cổ cao, chạy tới chạy lui, bận rộn toát mồ hôi. Ông vốn hát giọng cao. Giờ đây, vận dụng nghệ thuật sân khấu vào công việc làm ăn, giọng ông lên bổng xuống trầm, bước chân ông như nhảy như múa. Chân tay nhanh nhẹn, động tác chuẩn xác, nhất cử nhất động, tiết tấu phân minh. Bên tai ông, hình như có dàn đệm của đàn Miêu, tì bà và sáo trúc. Lâm Xung bỏ trốn trong đêm, Thất không trảm, Phong ba đình, Thường Mậu khóc mèo… Ông pha trà, thêm nước, chạy tới chạy lui, quên hết những việc khác, hạnh phúc trong lao động. Sân sau, ấm nước sôi rít lên lanh lảnh. Ông vội chạy vào lấy nước. Chú giúp việc Thạch Đầu tóc đầy bụi than, mặt nhem nhuốc, do vậy hàm răng càng trắng. Thấy chủ vào, chú càng ra sức kéo bễ. Trên bốn bếp lò là nước sôi bắn xèo xèo xuống bếp, khói trắng bốc lên, mùi thơm xộc vào mũi. Đào Hồng vợ ông, mỗi tay dắt một đứa lẫm chẫm tập đi, đòi lên chợ chơi. Bọn trẻ vui cười, mặt tươi như hoa. Đào Hồng bảo:
- Con Bảo, con vân chào cha đi!
Hai đứa trẻ lúng búng chào cha. Ông đặt ấm xuống, lau tay bằng vạt áo, bế hai đứa trẻ lên, dùng cái cằm đầy sẹo thơm lên má chúng. Mặt chúng có mùi sữa. Bọn trẻ cười như nắc nẻ, ông cảm thấy mật ngọt đang tan trong người. Ngọt đến cực điểm thì có vị chua. Bước chân ông càng thanh thoát, ứng đối khách cười sang sảng. Nét mặt tươi cười của ông, người khó tính đến mấy cũng phải thừa nhận rằng, ông đang hạnh phúc.
Tranh thủ một phút rỗi, Tôn Bính tựa quầy châm tẩu thuốc, rít một hơi thật dài. Từ khung cửa mở rộng, ông trông thấy vợ dắt hai con hòa vào dòng người, đi về phía chợ.
Một người tai to mặt lớn, vẻ phú quí ngồi trước bàn bên cạnh cửa sổ. Ông ta tên là Hiếu Cổ, tự Niệm Tổ, người ta gọi ông là Hai Trương. Ông Hai Trương tuổi ngoài năm mươi, mặt hồng hào, khí sắc cực tốt. Chiếc mũ quả dưa bằng đoạn màu đen chụp trên cái đầu tròn xoay, mặt trước mũ đính vào viên ngọc lục hình chữ nhật. Ông Hai là người học rộng ở vùng Đông Bắc Cao Mật, mua chức giám sinh, từng xuống Giang Nam, từng lên biên giới phía bắc, tự khoe rằng, đã từng một đêm nhất dạ phong lưu với kỹ nữ nổi tiếng Bắc Kinh Trại Kim Hoa. Chuyện thiên hạ, chỉ cần mào đầu, không có chuyện nào ông không biết phần đuôi. Ông là khách hàng quan của quán trà Tôn Ký, chỉ cần ông ngồi vào ghế là nói hết phần của những người khác. Ông Hai bê bát trà lên, mở nắp, dùng ba đầu ngón tay gạt bọt sang một bên, thổi phù một cái, nhấp một ngụm nhỏ, chép chép miệng, nói:
- Ông quán, sao trà hôm nay nhạt thế?
Tôn Bính vội gõ tẩu, lon ton chạy tới:
- Thưa ông Hai, đây là trà Long Tỉnh loại một mà ông vẫn thường dùng.
Ông Hai lại nhấp một ngụm nhỏ, chép chép, nói:
- Đúng là nhạt.
Tôn Bính vội nói:
- Không thì đốt quả hồ lô cho ông Hai.
- Hơi cháy một chút – Ông Hai nói.
Tôn Bính trở lại quầy, lấy xiên xuyên suốt quả bầu be rồi nướng trên ngọn đèn dầu, một mùi thơm kỳ lạ lập tức tỏa khắp căn phòng.
Sau khi uống nửa chung trà đậm pha trong quả bầu be, tinh thần ông Hai phấn chấn hẳn lên, hai mắt ông linh hoạt như hai con cá nhỏ, lướt trên khuôn mặt mọi người. Tôn Bính biết, ông Hai sắp cao đàm khoát luận. Cậu cả Ngô người gầy guộc, răng xỉn vì trà đặc và khói thuốc, cất giọng khê đặc hỏi:
- Ông Hai, đường sắt có tin gì mới không?
Ông Hai đặt đánh cạch bát trà xuống bàn, dẩu môi trên, khịt mũi một cái, ra vẻ kẻ cả:
- Tất nhiên có tin mới. Ta có nói với các vị rằng, ông bạn Quảng Đông Giang Nhuận Hoa tiên sinh của ta là Tổng Chủ bút Vạn quốc công báo, trong nhà lắp đặt hai máy điện báo, nhận từ Đông dương Tây dương tất cả những tin tức mới nhất. Hôm qua, nhà ta vừa nhận được Phi Hồng truyền thư – Từ Hi Thái Hậu tiếp đặc sứ Đức tại cung Vạn Thọ – Di Hòa Viên, bàn chuyện xây dựng đường sắt Giao – Tế.
Cậu cả Ngô vỗ tay:
- Ông Hai, ông đừng nói vội, để tiểu nhân đoán thử.
- Cậu đoán xem nào – Ông Hai nói – Cậu mà đoán đúng, ta bao hết tiền trà của các vị ở đây.
- Ông Hai hào phóng quá! – Cậu cả Ngô nói – Tiểu nhân đoán là, đôn kêu của dân chúng đã phát huy tác dụng, đường sắt đổi tuyến rồi.
- Vạn hạnh, vạn hạnh – Một ông râu đốm bạc lẩm bẩm – Lão Phật gia sáng suốt! Lão Phật gia sáng suốt!
Ông Hai lắc đầu, thở dài:
- Các vị phải tự trả tiền trà thôi.
- Rút cuộc vẫn không đổi tuyến! – Cậu cả Ngô cáu kỉnh, nói – Vậy là công toi.
- Đơn thỉnh cầu của dân đã bị đại nhân nào đó dùng làm giấy lau tay rồi – Ông Hai vẻ oán trách - Lão Phật gia đã nói ra miệng, “Hoàng Hà có thể đổi dòng, đường sắt Giao – Tế thì không đổi tuyến”.
Mọi người chán nản, đây đó vang lên những tiếng thở dài. Tú tài Khúc có mảng lang ben trên mặt, nói:
- Vậy vua Đức cử đặc sứ sang, để tăng tiền đền bù chiếm đất phá mồ mả của ta chứ gì?
- Ông tú Khúc bàn sát nút rồi đó – Ông Hai rành rẽ – Đặc sứ của Đức hoàng gặp lão Phật gia đã dùng đại lễ – ba lần quì lạy, chín lần khấu đầu để ra mắt, sau đó dâng lên một quyển sổ da dê loại hảo hạng, vạn năm cũng không rách. Đặc sứ nói, Đức hoàng bảo, quyết không để nhân dân vùng Đông Bắc Cao Mật bị thiệt. Chiếm một mẫu đất, bồi thường một trăm lượng bạc; hủy một ngôi mộ, đền hai trăm lượng. Từng gánh bạc trắng đã được tàu thủy đưa đến từ lâu rồi.
Mọi ngẩn ra một thoáng, rồi lập tức ồn lên:
- Mẹ kiếp, chiếm của tui một mẫu hai mà chỉ bồi thường có tám lạng!
- Phá của nhà tui hai ngôi mộ tổ mà cũng chỉ đền có mười hai lượng!
- Thế bạc chạy đi đâu?
- Làm gì mà ầm lên thế? – Ông Hai vỗ bàn, không bằng lòng – Gào đến vỡ trời cũng chẳng ăn thua! Nói để các vị biết, số bạc đã bị bọn phiên dịch, bọn Hán gian mại bản cắt xén hết.
- Đúng, đúng – Cậu cả Ngô nói – Có biết thằng Cầu bán quẩy ở trước đồn không? Thằng cha làm chân hầu bài trong tháng cho bọn phiên dịch. Mỗi tối nhặt nhạnh tiền giấy rơi dưới đất cũng được nửa bao. Chỉ cần chơi với bọn đường sắt, bất kể rùa rùa ba ba đều giàu to! Nếu không, đã chẳng có câu “Xe lửa nổi còi, vàng thoi vạn lượng”.
- Ông Hai, những chuyện này lạo Phật gia có biết không?
- Cậu hỏi ta – Ông Hai trợn mặt – Vậy ta hỏi ai?
Mọi người cười đau khổ, rồi cúi xuống húp trà xoàn xoạt.
Chương 22
Im ắng một lát, ông Hai thấp thỏm ngó ra ngoài, sợ có người nghe trộm, ông hạ giọng nói:
- Có chuyện đáng sợ hơn, các vị muốn nghe không?
Mọi người nhìn chằm chằm vào miệng ông Hai đợi nghe kể, không ai nói gì.
Ông Hai nhìn quanh, vẻ bí hiểm:
- Ông bạn thân của ta, tiên sinh Vương Vũ Đình, người Bái Nhiên, làm trợ tá phủ đường Giao Châu, gần đây tiếp nhận mấy chục vụ án kỳ lạ; rất nhiều đàn ông khi ngủ dậy thấy đuôi sam đã bị cắt cụt.
Mọi người kinh ngạc, không ai dám hỏi gì thêm, chỉ dỏng tai nghe ông Hai kể tiếp:
- Những người bị cắt đuôi sam, thoạt tiên đầu váng mắt hoa, tay chân bải hoải, tiếp theo là tinh thần thảng thốt, nói năng lảm nhảm, thế là tàn đời! – Ông Hai nói – Thuốc mấy cũng không khỏi, vì rằng đây không phải bệnh trong người.
- Chẳng lẽ lại có phong trào tóc dài? – Cậu cả Ngô nói – Tiểu nhân nghe người già kể, những năm thời Hàm Phong, quân tóc dài đánh lên phía Bắc, cắt đuôi sam trước, chém đầu sau.
- Không phải, không phải! – Ông Hai nói – Lần này là do bọn truyền giáo Đức giở trò ma thuật.
Tú tài Khúc băn khoăn:
- Cắt đi bấy nhiêu đuôi sam dùng vào việc gì?
- Cổ hủ quá! – Ông Hai tỏ vẻ không bằng lòng – Ông tưởng người ta cần cái đuôi sam của ông chắc? Người ta cần là cần linh hồn ông. Vì sao những người bị cắt đuôi sam lại bị chứng bệnh như vậy? chẳng phải bệnh tâm hần thì là bệnh gì?
- Ông Hai, tui vẫn có chỗ chưa rõ – Tú tài nói – Người Đức bắt đi bấy nhiêu linh hồn để làm gì?
Ông Hai cười nhạt, không trả lời.
- Ông Hai, tiểu nhân đã hiểu, chắc hẳn chuyện này liên quan đến đường sắt.
- Cậu cả thông minh! – Ông Hai hạ giọng, vẻ bí mật – Chuyện này không được nói lung tung. Người Đức dùng đuôi sam lót đường ray, mỗi thanh ray là một đuôi sam, mỗi đuôi sam là một linh hồn, mỗi ling hồn là một người đàn ông khỏe mạnh. Các vị thử nghĩ coi, xe lửa là một đống sắt nặng hàng chục vạn cân, nó không uống nước, không ăn cỏ, vậy mà chạy băng băng! sức mạnh ấy từ đâu mà ra? Các vị thử nghĩ xem.
Mọi người ngớ ra, im như thóc. Các ấm siêu trong bếp rít còi lanh lảnh. Mọi người linh cảm có cái gì đó cực kỳ khủng khiếp ấy sắp xảy ra, gáy lạnh toát, hình như có cái kéo rình mò phía sau lưng.
Giữa lúc mọi người đang lo lắng cho cái đuôi sam sau gáy, chú giúp việc ở hiệu thuốc trên trấn hớt hải chạy tới, thở hồng hộc, nói đứt quãng:
- Bác chủ quán… không hay rồi… Ông chủ sai cháu báo bác biết, kỹ sư Đức đang làm nhục bác gái trên trấn… Ông chủ bảo bác lên ngay, để muộn lôi thôi to!
Tôn Bính thất kinh, đánh rơi cái ấm, nước sôi bắn tung tóe, hơi nước mù mịt. Tiếp theo là lửa giận bừng bừng đốt cháy toàn thân. Khách hàng đều nhìn thấy cái cằm đầy những sẹo của ông co giật dữ dội, vẻ mặt thanh thản vỗ cánh bay đi, ở lại là bộ mặt hung thần ác quỉ. Tay phải tì mặt quầy, dướn mình lên như chuẩn bị bay, ông vọt ra đường, thuận tay vớ lấy cây gập chèn cửa bằng gỗ táo.
Khách uống trà cũng bị kích động, ồn ào như vỡ chợ. Mọi người đang bàng hoàng về chuyện chuyện cắt đuôi sam, đột nhiên được tin người Đức hạ nhục phụ nữ Trung Quốc, thế là nỗi sợ biến thành cơn giận. Sự bất bình chất chứa bấy nay, từ khi người Đức làm đường sắt Giao – Tế, cuối cùng trở thành hận thù. Tính khì người Cao Mật tiềm ẩn trong mỗi con người bùng nổ, lửa giận bừng bừng, bất kể sống chết, gầm thét chạy theo Tôn Bính ra chợ.
Tôn Bính chạy dọc theo phố hẹp, gió thổi hai bên tai ù ù. Ông cảm thấy máu dồn hết đỉnh đầu, vì vậy tai ong ong, mắt mờ đi. Những người trên đường đều như hình nhân bằng giấy, ngả ngiêng trước luồng gió do ông chạy như điên gây ra. Từng khuôn mặt méo mó lướt qua bên vai ông. Ông trông thấy một đám người quây thành vòng tròn trên khoảnh đất trống giữa hiệu thuốc Tế Sinh Đường và hiệu tạp hóa Lý Cẩm Ký, không nhìn thấy giữa vòng tròn có gì, nhưng nghe rõ tiếng la đến khản giọng của vợ và tiếng gào khóc của thằng Bảo con Vân. Ông gầm lên một tiếng như hổ gầm, như sói hú. Ông giơ cao cây gậy gỗ táo màu đỏ sẩm xông tới như một con thú nổi khùng. Mọi người dãn ra, nhường đường cho ông. Ông trông thấy tên kỹ sư Đức cẳng như cẳng sếu, đầu như mõ chùa, một tên đứng trước, một tên đứng sau sờ soạng vợ ông. Vợ ông dùng hai cánh tay che chắn, đỡ gạt rối cả lên, nhưng che được ngực thì hở mông, che được mông thì hở ngực. Bọn kỹ sư Đức cánh tay lông lá, đỏ au, dẽo như chân bạch tuộc, khó mà tránh. Mắt chúng chớp chớp, xnah như mắt mèo. Mấy tên cùng hội với hai tên này vỗ tay tán thưởng. Thằng Bảo và con Vân của ông lê la dưới đất gào khóc. Ông gầm lên một tiếng như con mãnh thú bị trọng thương, cây gậy gỗ táo rắn như thép nguội kéo theo làn gió đỏ sẫm, đập vào sau ót tên kỹ sư Đức lưng quay về phía ông, đứng lom khom, hai tay đang thọc trong đũng quần của vợ ông. Ông nghe thấy một tiếng “bịch” khi cây gậy đập vào gáy hắn, và cổ tay ông rung chuyển. thân hình tên kỹ sư dướn lên một cái rất kỳ quặc rồi mềm nhũn, nhưng hai tay hắn vẫn thọc trong đũng quần vợ ông. Thân hình cao to của tên kỹ sư đè lên Đào Hồng. Tôn Bính trông thấy rất nhiều máu đỏ sẫm chảy trên đầu tên kỹ sư Đức và ngay lập tức ngửi thấy mùi tanh nồng. Ông còn thấy tên Đức bóp vú vợ ông vừa nãy mặt mày nhăn nhở, giờ miệng há hốc như quỷ sứ. Ông rất muốn vụt tiếp tên ấy, nhưng hai cánh tay rã rời, cây gậy rơi xuống đất. Cú đập chí mạng vừa rồi, tiêu hao hết sức lực ông. Nhưng ông nhìn thấy sau lưng một rừng khí giới, đòn gánh có, cuốc xẻng có, cán chổi có, nhiều nhất là nắm đấm. Tiếng hò đáng inh tai nhức óc. Một số công nhân làm đường và hai tên Đức khác vội dìu tên kỹ sư sợ đến đờ đẫn thất thểu bỏ chạy, để lại tên Đức bị đánh vỡ sọ giữa đám người.
Tôn Bính đứng ngây ra một lúc rồi cúi xuống, cố lật tên Đức sang bên. Tên này vẫn co giật một cách kỳ quặc. Hai tay hắn thọc trong quần của vợ ông dài như rễ của cây cổ thụ, kéo mãi mới ra hết. Lưng vợ ông dính đầy máu tên Đức. Ông lợm giọng, chỉ muốn nôn, thậm chí quên cả kéo vợ dậy, vợ ông phải tự làm lấy. Tóc rối bù, khuôn mặt hơi gầy bê bết bùn đất, xấu đi một cách đáng sợ. Nàng vừa khóc vừa sà vào lòng ông, nhưng ông chỉ nghĩ đến chuyện nôn ọe, không còn hơi sức ôm lấy nàng. Đột nhiên, vợ ông nhào ra khỏi lòng ông, chạy đến chỗ hai con đang gào khóc. Nàng đứng đó, nhìn không chớp mắt tên Đức co giật từng cơn.
Đứng trước thân hình tên Đức như một con rắn chết, ông mơ hồ cảm thấy đại họa sắp tới gần. Nhưng trong lòng ông, công lý đang lên tiếng biện hộ cho ông: chúng tròng ghẹo vợ tui, tay chúng đã thọc vào đũng quần của vợ tui. Chúng đã làm tổn thương con cái tui. Do vậy tui mới đánh hắn. Nếu như hắn thọc tay vào đũng quần vợ anh thì anh có để yên không? Lại nữa, tui không định đánh chết hắn, chẳng qua là cái đầu hắn mềm quá. Ông cảm thấy mình không có gì sai, tình lý đúng cả. Bà con xung quanh có thể làm chứng. Những công nhân làm đường có thể làm chứng. Các vị có thể hỏi cái ông kỹ sư kia, chỉ cần ông ấy có lương tâm, ông ấy cũng có thể chứng minh, rằng các ông ấy chọc ghẹo vợ tui trước, hạ nhục vợ tui, bấn quá tui mới dùng gậy đánh ông ấy. Dù rằng cảm thấy tình lý trong tay, nhưng hai chân ông vẫn nhũn ra, miệng vừa khô vừa đắng, cái cảm giác đại họa sắp choán hết trong đầu ông, đuổi không đi, khiến ông không còn khả năng tư duy phức tạp. Người xem rất đông, lặng lẽ bỏ đi hết. Hàng quán hai bên đường vội vã dọn hàng, xem ra họ muốn rời khỏi đây, càng sớm càng tốt. Dọc hai bên phố, mới giữa trưa mà các cửa hiệu đều đóng cửa, lạii còn treo biển đang kiểm kê. Đường phố bỗng trở nên rộng hơn rất nhiều. Gió heo may tràn về, thổi tróc cây bay lá trên đường phố thênh thang. Vài con chó màu lông bẩn mắt, nấp trong ngõ, sủa ran.
Ông đâm hoảng khi nhận ra rằng, gia đình ông hình như đang ở giữa sân khấu, mọi người đang xem ông biểu diễn. Những ánh mắt nhìn trộm qua kẽ hở của các cửa hiệu xung quanh qua ô cửa của các nhà phố bên, và từ các xó xỉnh khác. Vợ ôm hai đứa nhỏ, run cầm cập trong gió lạnh. Nàng nhìn ông bằng cặp mắt đáng thương, van xin ông hãy thông cảm và tha thứ cho nàng. Hai đứa trẻ rúc đầu trong vạt áo mẹ như hai con chim non quá khiếp hãi, bạ đâu rúc đấy. Trái tim ông như bị cứa bằng lưỡi dao cùn, đau cùng cực. Mắt cay, sống mũi cay cay, một tình cảm bi tráng dâng lên, ông đá tên kỹ sư một cái, chửi: Mẹ mày, giả vờ chết phải không? Ông ngẩng đầu lên, cao giọng nói với những cặp mắt lén lút xung quanh:
- Chuyện hôm nay, bà con đã thấy hết. Nếu quan phủ có hỏi, xin bà con hãy nói theo lẽ phải, tui xin lạy tạ – Ông chắp tay vái bốn phía, nói tiếp – Tui đánh chết người, tội ai người nấy chịu, quyết không để liên lụy đến bà con!
Hôm sau, ông vẫn mở quán từ sáng sớm, lau chùi bàn ghế. Chú giúp việc Thạch Đầu, vẫn ra sức kéo bễ quạt lò. Bốn ấm nước sôi sùng sục. Nhưng mặt trời đã gần trưa mà vẫn không có khách. Đường phố trước cửa vắng tanh, không một bóng người, từng cơn gió lạnh buốt cuốn lá bay đi. Vợ ông mỗi tay bế một đứa, bám sau ông, không rời nửa bước. Cặp mắt to, trắng đen phân minh, thấp thỏm không yên. Ông xoa đầu bọn trẻ, cười nhẹ nhõm: về buồng nghỉ đi, không chuyện gì đâu, chúng tròng ghẹo con nhà lành, nếu phải chém thì chém đầu chúng!
Ông biết mình cố ra vẻ bình tĩnh, vì rằng ông thấy bàn tay cầm giẻ lau của ông run lẩy bẩy. Sau đó, ông bắt vợ phải vào sân trong, còn mình thì ngồi ngoài quán, tay vỗ bàn, cất tiếng hát một khúc Miêu Xoang:
Ngóng quê nhà đường đi xa lắc, nhớ vợ hiền nương cậy vào ai. Như tui nay dữ lành chưa rõ, còn nàng ư, sống chết khôn lường.
Aùi chà chà, toàn thân tui ướt đẫm vì sợ, nhen lửa lòng nung nầu con tim…
Như người ta mở đập nước, khúc thứ nhất hát xong, lời ca mà cả đời tích cóp, cuồn cuộn chảy theo. Ông càng hát càng ai oán, càng hát càng thê thảm, lệ chảy từng dòng xuống cái cằm không râu.
Hôm ấy, tất cả người dân ở trấn Mã Tang lặng nghe tiếng hát của ông.
Một ngày dài dặc trôi đi trong tiếng hát. Mặt trời sắp lặn đỏ như máu, quét trên rừng liễu ven đê. Từng đàn chim sẻ đậu trên một ngọn cây liễu, cùng cất tiếng kêu nháo nhác như mách bảo ông điều gì đó. Ông đóng cửa quán, cầm cây gậy gỗ táo ngồi đợi trước cửa sổ. Ông chọc thủng giấy dán cửa, nhìn ra ngoài quan sát động tĩnh. Chú giúp việc Thạch Đầu bên đến cho ông một bát kê, ông ăn một miếng, nuốt không trôi. Ông bị sặc, hạt kê vọt ra lỗ mũi như đạn ghém. Ông bảo Thạch Đầu:
- Này con, sư phụ gây đại họa, người Đức sớm muộn sẽ đến trả thù, nhân lúc bọn chúng chưa tới, con nên trốn đi!
- Sư phụ, con không đi, con đánh giúp sư phụ – Thạch Đầu lôi trong bọc cái giàn thun, nói – Con bắn rất trúng.
Ông không khuyên Thạch Đầu nữa. Cổ họng khê đặc, ông nói rất khó khăn. Ông cảm thấy ngực đau không chịu nổi, y như hồi học nghệ bị ngã khi tập. Chân tay ông vẫn còn run, trong bụng vẫn hát trầm một hồi ba cảnh của một vở diễn.
Lúc vầng trăng lưỡi liềm treo trên ngọn cây liễu, ông nghe thấy tiếng vó ngựa từ phía tây của con đường đá, phi tới. Ông nhảy dựng lên, bàn tay nóng hổi nắm chặt cây gậy gỗ táo, chuẩn bị đối phó. Ông trông thấy, dưới ánh trăng sao yếu ớt, một con la to lớn màu đen, ngất ngưởng chạy tới, người cưỡi mặc đồ đen, đeo mạng đen, không rõ mặt.
Đến trước cửa quán, người ấy lăn khỏi mình con la, gõ cửa cộc cộc.
Ông nắm chắc cây gậy, nín thở, nấp sau cánh cửa.
Tiếng gõ không mạnh, nhưng bức bách.
Giọng khản đặc, ông hỏi:
- Ai?
- Tui!
Ông nhận ra ngay tiếng con gái, mở vội cửa, nàng Mi Nương màu đen lách vào, nói luôn:
- Cha, đừng nói gì nữa, chạy mau!
- Vì sao cha phải chạy? – Ông giận dữ nói – Chính chúng chọc ghẹo con nhà lành trước!
Con gái ngắt lời ông:
- Cha gây họa lớn rồi! Người Đức điện báo cho Bắc Kinh, Tế Nam. Viên Thế Khải cũng điện cho Tiền đại nhân phải bắt cha ngay trong đêm nay, đội truy bắt sắp tới rồi!
- Thế này thì còn công lý gì nữa!
Ông định tranh luận, nhưng con gái nổi cáu, nói:
- Nước đến chân rồi! – Con gái nghiêng tai nghe. Từ xa vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập – Cha, đi hay ở tùy cha định liệu – Nàng nghiêng mình lách ra ngoài, nhưng lại ló nửa người vào trong, nói – Cha chạy đi, bảo dì Hồng giả điên.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian